Vị trí ba nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc gần biên giới Việt Nam - Nguồn: Thanh Hà - Đồ họa: Như Khanh
Ba nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc xây dựng gần biên giới Việt Nam vừa đưa những tổ máy đầu tiên vào hoạt động.
Với khoảng cách từ Nhà máy điện hạt nhân Phòng Thành (Quảng Tây) đến Việt Nam khoảng 50km, các chuyên gia cho rằng cần sớm có mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, TS Nguyễn Hào Quang, phó viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM), cho biết:
- Việc xây dựng một mạng lưới như vậy đã được VINATOM đề cập khá nhiều lần trong vài năm trước đây. Với những người trong ngành, ai cũng biết đây là điều cần thiết, ví dụ trong lịch sử phát triển điện hạt nhân, không ai không nhớ đến sự cố Chernobyl trên lãnh thổ Ukraine xảy ra năm 1986.
Liên Xô không thông báo thông tin rộng rãi về sự cố nhà máy, nhưng những đám mây phóng xạ phát tán đã bay qua Belarus tới Thụy Điển, nơi cách Chernobyl cả nghìn kilômet.
Hàng rào quan trắc phóng xạ của Thụy Điển đã phát hiện những dữ liệu bất thường và các nhà nghiên cứu nước này là những người đầu tiên trên thế giới đo được bụi phóng xạ, truy ngược được nguồn gốc phát sinh. Chỉ tới lúc đó, thông tin về một tai nạn nghiêm trọng của nhà máy điện hạt nhân của Liên Xô mới bùng nổ trên thế giới.
Đó là câu chuyện của quá khứ, còn bây giờ nhiều quốc gia có mạng lưới quan trắc phóng xạ nên việc phát hiện sự cố rò rỉ phóng xạ đều diễn ra sớm và kịp thời có phương án ứng phó.
* Trong khi Việt Nam hiện chưa có nhà máy điện hạt nhân, chúng ta có cần xây dựng mạng lưới quan trắc phóng xạ quốc gia không, thưa ông?
- Phóng xạ di chuyển không biên giới và không thể quan sát bằng mắt thường, vì thế dù Việt Nam hiện chưa có nhà máy điện hạt nhân nhưng ở vị trí sát sườn với một số quốc gia có nhà máy đang vận hành như Trung Quốc hay đang trong kế hoạch phát triển và xây dựng nhà máy như Thái Lan, Indonesia, Campuchia..., Việt Nam vẫn cần phải sớm có một mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia.
Đặc biệt gần đây, sự biến chuyển mạnh mẽ của tình hình mới trong khu vực khiến mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia cần phải được triển khai sớm.
Trong năm 2016, ba nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc ở những vị trí gần với Việt Nam đã bắt đầu đi vào hoạt động: hai tổ máy đầu tiên có công suất 1.000 MW của Nhà máy điện hạt nhân Phòng Thành (Quảng Tây) đi vào hoạt động thương mại, hai tổ máy 650 MW của Nhà máy Xương Giang trên đảo Hải Nam và ba tổ máy 600 MW của Nhà máy Trường Giang (Quảng Đông) đã được kết nối lưới điện quốc gia của Trung Quốc. Mỗi nhà máy đều thiết kế dự kiến có 6 tổ máy.
Các nhà máy này đều ở vị trí gần với biên giới trên đất liền và trên biển Việt Nam. Nhà máy điện hạt nhân Phòng Thành chỉ cách Quảng Ninh khoảng 50km. Nhà máy điện Xương Giang trên đảo Hải Nam cách đảo Bạch Long Vĩ của chúng ta hơn 100km.
Xa nhất là Nhà máy điện Trường Giang cũng chỉ cách biên giới Việt Nam hơn 200km. Tức là khi cả ba nhà máy hoạt động hết công suất, sẽ có tới 18 tổ máy phát điện hạt nhân ngay gần biên giới nước ta.
Theo khuyến cáo của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), khu vực bên ngoài nhà máy điện hạt nhân có công suất lớn hơn 1.000 MW cần được phân vùng để có kế hoạch ứng phó sự cố phù hợp: vùng bảo vệ khẩn cấp (không được quy hoạch có dân cư, PAZ) từ 3 - 5km; vùng lập kế hoạch bảo vệ khẩn cấp (có thể có dân cư nhưng phải có kế hoạch ứng phó nhằm ngăn ngừa sự chiếu xạ đối với công chúng bên ngoài cơ sở khi xảy ra sự cố, UPZ) từ 15 - 30km; khoảng cách lập kế hoạch mở rộng (EPD) ở phạm vi dưới 100km và khoảng cách lập kế hoạch cho hàng hóa và thực phẩm (ICPD) phạm vi dưới 300km.
Như vậy, Quảng Ninh và một số tỉnh phía Bắc của Việt Nam cũng thuộc khu vực EPD và ICPD trong tương quan với Nhà máy Phòng Thành và Việt Nam cần phải chuẩn bị kế hoạch ứng phó dự phòng.
* Việc xây dựng mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia thật ra đã được quan tâm và đưa vào quy hoạch xây dựng từ năm 2006, nhưng vì sao đến nay chúng ta vẫn chưa bắt đầu thực hiện việc này, thưa ông?
- Theo quy hoạch, mạng lưới sẽ bao gồm 1 trung tâm điều hành, 4 trung tâm vùng do Bộ Khoa học và công nghệ quản lý, 16 trạm quan trắc địa phương do các tỉnh thành quản lý, 1 hệ thống trinh sát phóng xạ quân đội do Bộ Quốc phòng quản lý.
Ước tính tổng kinh phí đầu tư khoảng 1.000 tỉ đồng. Khó khăn chưa thực hiện được là do nguồn vốn, nguồn kinh phí hạn hẹp chưa đầu tư xây dựng được theo như quy hoạch.
Ai cũng hiểu việc thiết lập một mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường ở tầm quốc gia dĩ nhiên sẽ đòi hỏi một lượng kinh phí đầu tư lớn vào cơ sở vật chất và con người.
VINATOM đang xây dựng dự án theo cách phân kỳ: giai đoạn một dự kiến trong năm 2017-2020, giai đoạn hai dự kiến trong năm 2021-2025.
Ông Nguyễn Hào Quang - Ảnh: T.H
Xem xét ký thỏa thuận với Trung Quốc về an toàn hạt nhân
Trước lo ngại các nhà máy điện hạt nhân phía nam Trung Quốc có thể ảnh hưởng phóng xạ đến Việt Nam, ông Vương Hữu Tấn - cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân - cho biết Việt Nam đã tham gia Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân từ năm 1987 và có thể vận dụng một số công ước quốc tế để nhận biết sớm sự cố hạt nhân nếu xảy ra.
Bất kỳ một sự cố hạt nhân nào, mạng lưới thông báo sớm quốc tế sẽ cung cấp thông tin cho Việt Nam.
Cũng theo ông Tấn, Bộ Khoa học và công nghệ Việt Nam vừa có trao đổi song phương với Trung Quốc về vấn đề điện hạt nhân của nước này.
Sắp tới, sẽ có đoàn của Việt Nam trực tiếp sang làm việc và có thể ký một thỏa thuận giữa Cục An toàn bức xạ và hạt nhân với Cơ quan An toàn hạt nhân Trung Quốc để có cách thức trao đổi thông tin về vấn đề này.
Xác định các “điểm nóng”
Theo TS Nguyễn Hào Quang, để dự án được thực hiện hiệu quả mà không tốn quá nhiều chi phí, VINATOM đề xuất trong giai đoạn một tập trung đầu tư thiết bị quan trắc tại những địa phương có khả năng bị ảnh hưởng nhiều nhất trong trường hợp xảy ra sự cố nhà máy điện hạt nhân từ Trung Quốc.
Với cách nhìn nhận thông thường thì có thể dễ dàng chọn ra một số địa phương gần biên giới Trung Quốc làm địa điểm đặt các trạm quan trắc.
Tuy nhiên để có phương án tối ưu, các chuyên gia của viện đã khảo sát, tính toán trên cơ sở chu kỳ khí hậu trong vòng một năm, qua đó xác định được các “điểm nóng” là Quảng Ninh (Móng Cái và Bãi Cháy), Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An và Hà Nội (nơi đặt trung tâm điều hành mạng lưới).
Đây sẽ là các trạm mà viện dự kiến lắp đặt và đưa vào vận hành ở giai đoạn một.
Tác giả bài viết: Thanh Hà thực hiện